Tác dụng và ý nghĩa của lý luận âm dương trong “Hoàng đế nội kinh” (Phần 2)

  1. Đặc trưng thuộc tính âm dương của sự vật và ý nghĩa y học của nó:

Khái niệm âm dương được luận bàn trong “Nội kinh” giới hạn và phục vụ cho nhu cầu giải quyết các vấn đề y học, tiến hành phân chia thuộc tính âm dương của các sự vật có liên quan đến lý luận y học. Nếu lấy khái niệm âm dương được bàn đến trong “Nội kinh” để phân tích thì cụ thể có năm đặc trưng:

– Một là tính trừu tượng. Tính trừu tượng của âm dương là để chỉ, từ những sự vật và hiện tượng cụ thể có liên quan đến y học mà “Nội kinh” có thể nhận thức được, thăng hoa, nâng cao thành các đặc điểm có thể phản ảnh tính giống nhau, thuộc tính bản chất của sự vật. Câu “thả phu âm dương giả, hữu danh nhi vô hình” cũng chính là nhận thức và biểu đạt của “Nội kinh” đối với tình trừu tượng của âm dương, do đó phân chia âm dương đối lập, thống nhất lẫn nhau trong các sự vật như thiên Âm dương hệ nhật nguyệt của sách “Linh khu” viết: “Sổ chi khả thập, suy chi khả bách, sổ chi khả thiên, suy chi khả vạn, thử chi vị dã” (Đếm được mười thì từ đó có thể suy ra hàng trăm, đếm được hàng nghìn thì có thể diễn giải ra hàng vạn, đó chính là âm dương). Từ đó chỉ ra, khái niệm “âm dương” là khái niệm có tính quy luật được trừu tượng hóa từ hàng nghìn, hàng vạn sự vật và hiện tượng cụ thể, chứ không để chỉ một số những sự vật và hiện tượng cụ thể.

– Hai là tính quy định. “Nội kinh” xuất phát từ nhu cầu thực tế của y học, khi vận dụng khái niệm âm dương đã tiến hành ra hai quy định như sau: Một là tính không thể phản xưng trong thuộc tính âm dương của sự vật. Ví dụ như quy nạp thuộc tính âm dương của sự vật đã nói bên trên. Một khi tiến hành quy định thuộc tính dựa theo quy định có liên quan của học thuyết âm dương, thì thuộc tính của âm dương không được tùy tiện thay đổi hai gọi trái lại. Ví dụ lấy nhiệt độ làm điều kiện quy định thuộc tính âm dương thì “nhiệt là dương, hàn là âm”, chứ không thể gọi “hàn là dương, nhiệt là âm”. Hai là quy định những tác dụng, đặc tính và công năng của sự vật có tính ấm nóng, hưng phấn, thúc đẩy, lan tỏa, hướng ngoại, thăng lên thuộc về dương, hay gọi là “dương khí”; quy định những tác dụng, đặc tính và công năng của sự vật có tính mát lạnh, ức chế, thu liễm, ngưng kết, hướng nội, trầm giáng thuộc về âm, hay gọi là “âm tinh”. Lúc này “âm” và “dương” đã có đặc trưng bản thể. Khi loại vật chất được quy định một cách nghiêm khắc là dương đó, dưới tác dụng của các nhân tố gây bệnh, xuất hiện phản ứng bệnh lý là có thừa hoặc thiên lệch, sẽ xuất hiện các triệu chứng như trong thiên Âm dương ứng tượng đại luân sách Tố vấn viết: “Dương thịnh tắc thân nhiệt, tấu lý bế, suyễn thô vi chi phủ ngưỡng, hãn bất xuất nhi nhiệt, xỉ can dĩ phiền muộn, phúc mãn, tử, nại đông bất nại hạ” (dương khí thiên về thịnh thì người phát sốt, tấu lý đóng chặt, hơi thở mạnh mà suyễn, khi thở thì cúi về phía trước ngửa về phía sau, cơ thể đung đưa, mồ hôi không ra được mà sốt càng cao, răng khô, trong lòng phiền loạn, nếu tiếp tục xuất hiện chứng đầy bụng thì bệnh tình sẽ nguy hiểm, cho nên những người mắc loại bệnh này thì đến mùa đông còn có thể chống chọi được, nhưng không chịu được cái nóng bức của mùa hè). Trái lại, đối với những loại vật chất được quy định một cách nghiêm khắc là âm, dưới tác dụng của các nhân tố gây bệnh, xuất hiện phản ứng bệnh lý là có thừa hoặc thiên lệch, sẽ xuất hiện các triệu chứng như: “Âm thịnh tắc thân hàn, hãn xuất, hãn thường thanh, số lật nhi hàn, hàn tắc quyết, quyết tắc phúc mãn, tử, nại hạ bất nại đông” (âm khí thiên thịnh thì người lanh, ra mồ hôi, khắp người thường cảm thấy lạnh, rét run cầm cập, nặng thì tay chân lạnh toát, nếu lại xuất hiện chứng đầy bụng thì bệnh tình cũng rất nguy hiểm, cho nên người bệnh mắc loại bệnh này thì vào mùa hè còn có thể chống chọi được, nhưng lại không chịu nổi cái lạnh giá của mùa đông). Ngoài ra, “Nội kinh” còn khái quát cao độ hai loại phản ứng bệnh lý đó bằng câu: Dương tháng tắc nhiệt, âm thắng tắc hàn” (nếu sử dụng quá nhiều thuốc có tính dương thì sẽ làm tổn thương âm tinh, còn nếu dùng quá nhiều vị có tính âm thì sẽ làm tổn thương dương khí). Hiển nhiên “âm dương” ở đây bao hàm quan điểm của bản thể luận, nó đặc biệt dùng để chỉ hai loại vật chất cụ thể trong cơ thể có khả năng sản sinh ra hiệu ứng nóng lạnh và chức năng của hai loại vật chất đó. Trong điều trị lâm sàng, các phương pháp và phương thuốc tương ứng dùng để bổ dương hay tư âm, đều nhằm vào loại vật chất cụ thể đã được quy định nghiêm khắc về thuộc tính âm dương, chức năng của chúng và bệnh chứng mà chúng gây ra.

– Ba là tính rộng khắp. Tính rộng khắp của âm dương là để chỉ âm dương từ trong rất nhiều sự vật làm trừu tượng hóa ra những thuộc tính có quy luật tương đồng, có thể dùng nó để giải thích rõ mối liên hệ thông thường giữa các sự vật trong giới tự nhiên. Ví dụ như trong thiên Ngũ vận hành đại luận sách Tố vấn có viết: “âm dương giả, sác chi khả thập, suy chi khả bách, sác chi khả bách, suy chi khả vạn. Thiên địa âm dương giả, bất khả sác suy, dĩ tượng chi vị dã” (Thuộc tính âm dương của sự vật là tương đối, nhưng lại có thể phân chia, cho nên suy diễn ra thì có thể từ mười đến trăm, từ trăm đến nghìn, từ nghìn đến vạn, trời đất rộng lớn, biến hóa âm dương trong đó không thể dùng con số để suy tính, mà chỉ có thể ước đoán thông qua quan sát các hiện tượng của giới tự nhiên). Như thế đã giải thích rõ quy luật của âm dương và khái niệm âm dương  có tính phổ biến là “một chia thành hai”, có thể thích hợp dùng một cách rộng rãi trong tất cả các tri thức, lĩnh vực trong thế giới vật chất và nhận thức của khoa học sống.

– Bốn là tính tương đối. Tính tương đối của âm dương là để chỉ thuộc tính tổng thể của sự vật ban đầu được quy định thuộc âm hay thuộc dương, một khi điều kiện sảy ra biến đổi thì thuộc tính âm dương ban đầu cũng thay đổi theo. Tính tương đối của âm dương được biểu hiện trong ba tầng lớp sau:

+ Một là đặc tính có thể phân chia của âm dương. Nói một cách đơn giản là bất luận trong các sự vật thuộc tính âm hay dương thì vẫn có thể phân chia tiếp ra hai phương diện là âm và dương. Đối với những sự vật vốn đã được xác định là âm hoặc là dương, ta có thể tiến hành nhận thức sâu hơn về nó. Trong “Nội kinh” khi vận dụng đặc tính đó, trích dẫn từ thiên Kim quỹ chân ngôn luận có viết: “Trong âm còn có âm, trong dương còn có dương. Ví dụ, dùng một ngày để nói, ban ngày là dương, ban đêm là âm. Từ sáng sớm đến buổi trưa là dương ở trong dương, từ buổi trưa đến hoàng hôn là âm trong dương. Từ lúc trời tối đến gà gáy sớm là âm trong âm, từ gà gáy đến trời sáng là dương trong âm. Cơ thể con người và giới tự nhiên quan hệ mật thiết vơi nhau, cho nên các bộ phận và nội tạng trong cơ thể cũng có thể dùng phương pháp này để phân chia âm dương. Nếu đem cả cơ thể ra phân chia âm dương thì bên ngoài thuộc dương, bên trong thuộc âm. Nếu chia theo vị trí trước sau của thân thể thì lưng thuộc dương, bụng thuộc âm. Nếu lấy tạng phủ phân chia âm dương thì tạng là âm mà phủ là dương, cũng có nghãi là năm tạng Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận đều thuộc âm, còn lục phủ Đởm, Vị, Tiểu trường, Đại trường, Bàng quang, Tam tiêu đều thuộc dương. Vậy làm sao chúng ta phải hiểu đạo lý trong dương có dương, trong âm có âm?  Đó là vì chẩn đoán và điều trị bệnh đều cần đến nó, ví dụ bệnh mùa đông tại âm, bệnh mùa hè tại dương, bệnh mùa xuân tại âm, bệnh mùa thu tại dương. Còn trong lâm sàng thường thường dựa theo vị trí của bệnh mà sử dụng các phương pháp như châm cứu, bấm huyệt để điều trị. Trên đây tuy đã nói, lưng thuộc dương, bụng thuộc âm, lục phủ thuộc dương, ngũ tạng thuộc âm, nhưng nếu liên hệ lưng bụng với đặc điểm chức năng của ngũ tạng, thì vẫn có thể tiếp tục phân chia âm dương. Tức là, vùng lưng thuộc dương, tạng Tâm là dương trong dương, tạng Phế là âm trong dương, vùng bụng thuộc âm, tạng Thận là âm trong âm, tạng Can là dương trong âm, còn tạng Tỳ là chí âm trong âm”. Dựa theo nhu cầu của lý luận y học, trong mỗi một nội tạng, vẫn còn hai phương diện âm và dương, ví dụ Tâm có Tâm âm và Tâm dương, Can có Can âm và Can dương, Vị có Vị âm và Vị dương, v.v… Nếu phân chia tính vị (khí vị) của dược vật thành âm và dương, thì trong thiên Âm dương ứng tượng đại luận sách Tố vấn có viết: “Dương vi khí, âm vi vị, … … Vị hậu giả vi âm, bạc vi âm chi dương. Khí hậu giả vi dương, bạc vi dương chi âm”. 12 kinh mạch cũng được chia làm kinh âm và kinh dương, kinh âm lại phân thành kinh Thái âm, kinh Thiếu âm, kinh Quyết âm, còn kinh dương được chia thành kinh Thái dương, Kinh Dương minh và kinh Thiếu dương, tất cả đều là ứng dụng cụ thể của đặc tính có thể phân chia của âm dương khi cấu thành lý luận y học. “Nội kinh” xuất phát từ nhu cầu thực tế trong việc giải thích lý luận y học, tiến hành nhận thức, chia tầng lớp sâu hơn đối với những thuộc tính vốn đã được xác định, ví dụ âm dương trong ngày đêm, âm dương trong hình thể con người, âm dương trong tạng phủ hay âm dương trong khí vị của dược vật. Đông y vận dụng một cách rộng rãi đặc tính có thể phân chia của âm dương trong thực tiễn lâm sàng, chỉ dẫn cho chẩn đoán và điều trị các bệnh chứng tương ứng, ví dụ sau khi phân biệt “dương hư thì hàn” thì cho rằng như vậy vẫn chưa đủ cụ thể, vì mỗi một tạng phủ đều vẫn còn hai loại vật chất âm dương và chức năng của chúng, tức là có khả năng sản sinh ra một lớp nghĩa sâu hơn về dương hư hoặc âm hư, ví dụ Tâm có Tâm âm hư, Tâm dương hư, Tỳ có Tỳ âm hư, Tỳ dương hư, Thận có Thận dương hư, Thận âm hư, v.v…, sau đó trên cơ sở nhận thức về cơ chế bệnh chung của “dương hư thì hàn”, ta cần tìm hiểu rõ hơn một bước là “dương hư” ở tạng nào thì mới có thể tiến hành điều trị, dùng thuốc một cách cụ thể. “Nội kinh” khái quát đặc tính này bằng câu “trong dương có âm, trong âm có dương” trong thiên Thiên nguyên kỷ đại luận sách Tố vấn. Các y gia đời sau gọi mối quan hệ đó là “âm dương hỗ tàng”, đồng thời họ cho rằng đây là tiền đề và cơ sở phát sinh một loạt những quan hệ như đối lập chế ước, hỗ căn hỗ dụng trong nội bộ tất cả các sự vật.

+ Hai là tính chuyển hóa về thuộc tính âm dương của sự vật. “Nội kinh” cho rằng những sự vật đã được xác định thuộc tính âm dương, trong  điều kiện nhất định thì thuộc tính ban đẩu có thể thay đổi theo đó, ví dụ thiên Luận tật chẩn xích trong sách Linh khu cho rằng “Tứ thời chi biến, hàn thử chi thắng, trùng âm tất dương, trùng dương tất âm, cố âm chủ hàn, dương chủ nhiệt, cố hàn thậm tắc nhiệt, nhiệt thậm tắc hàn, cố viết: hàn sinh nhiệt, nhiệt sinh hàn,  thử âm dương chi biến dã”. Những bệnh chứng mà con người mắc phải, dưới tác dụng của tác nhân nào đó cũng có thể xảy ra chuyển biến là  “trùng hàn tắc nhiệt, trùng nhiệt tắc hàn”. Đây cũng chính là đạo lý mà Trương Cảnh Nhạc viết trong thiên Âm dương loại của sách Loại kinh: “Âm dương chi lý, cực tắc bất biến”.

+ Ba là khi tiền đề và căn cứ phân chia thuộc tính âm dương của sự vật bị thay đổi, thuộc tính âm dương quy định ban đầu cũng theo đó mà thay đổi. Ví dụ những điều kiện về thời gian, không gian bi thay đổi cũng có thể làm cho thuộc tính của sự vật bị thay đổi theo. Nếu so sánh lục phủ với tay chân, hình thể bên ngoài thì nó thuộc âm, nhưng nếu đem nó so sánh với ngũ tạng thì lục phủ lại thuộc dương. Ngũ tạng tuy đều thuộc âm, nhưng Tâm nằm trên hoành cách mô, nếu só với các tạng ở bên dưới thì Tâm lại thuộc dương.

– Năm là tính liên quan của âm dương. Tính liên quan của âm dương là để chỉ đối tượng dùng âm dương để phân tích phải là sự vật trong cùng một phạm trù, cùng một phương diện hoặc có cùng một điểm giao thoa. Những sự vật hay hiện tượng không có liên quan đến nhau không thể tiến hành quy định và phân chia thuộc tính âm dương của nó, nếu không nó sẽ trở thành hoang đường, không có ý nghĩa. Ví dụ trong phương vị thì khái niệm trên và dưới nằm trong cùng một phạm trù, về nhiệt độ thì hàn và nhiệt nằm trong cùng một phương diện, tuyệt đối không được lấy trên và lạnh, hay dưới và nóng làm mặt đối lập mà tiến hành quy định hay phân chia thuộc tính âm dương, làm như thế thì không có ý nghĩa gì cả. Bởi vì những sự vật không nằm trong cùng một phương diện, các khái niệm không trong cùng một phạm trù thì không có tính so sánh khi tiến hành quy định hoặc phân chia thuộc tính âm dương. Nếu tra cứu tất cả các sự vật được quy định và phân chia thuộc thính âm dương trong sách “Nội kinh” ta có thể thấy chúng đều nghiêm khắc tuân thủ quy tắc có tính liên quan này.

TS Nguyễn Hoài Văn – P.KHTH

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *